TRƯNG BÀY SÁCH THEO CHỦ ĐỀ THÁNG 12
“Toàn
cảnh trận Điện Biên Phủ trên không tháng 12 năm 1972”
Chúng ta đang sống trong không bầu không khí hạnh phúc của một nền
độc lập tự do, của cái se lạnh trong những ngày mùa thu trong lành, nhưng các
em có biết vào khoảng thời gian này năm 1972 đang chuẩn bị diễn ra một trận
chiến Điện Biên Phủ trên không vô cùng ác
liệt. Các em hãy cùng cô hồi tưởng lại những giây phút hào hùng, để làm nên
chiến thắng đó
Sau cuộc tiến công chiến lược đầu năm 1972 của quân và dân ta trên
chiến trường miền Nam Việt Nam, chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ có nguy cơ bị sụp đổ hoàn toàn.
Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ buộc phải "Mỹ hóa" trở
lại cuộc chiến tranh ở miền Nam, đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại
lần thứ hai đối với miền Bắc. Đế quốc Mỹ coi đó là biện pháp quyết định hòng
cứu nguy cho sự sụp đổ của quân ngụy Sài Gòn - xương sống của chiến lược
"Việt Nam hóa chiến tranh". Ngày 6/4/1972, máy bay và tàu chiến Mỹ
mở Chiến dịch Linebacker I (Sấm rền I). Sau 10
ngày đêm ném bom đánh phá dữ dội vùng phía bắc khu phi quân sự, thành phố Vinh,
Bến Thủy (Nghệ An), Thanh Hóa và nhiều nơi khác thuộc Quân khu 4, ngày
16/4/1972, Mỹ cho máy bay B52 ném bom thành phố Hải Phòng. Cùng ngày, vào hồi 9
giờ 30 phút đến 10 giờ 10 phút hơn 60 lần chiếc máy bay chiến thuật của Mỹ chia
thành nhiều tốp ném bom Thủ đô Hà Nội. Các lực lượng phòng không chủ lực và dân
quân tự vệ bảo vệ thành phố nổ súng, đánh trả địch quyết liệt. Trận đánh vừa
kết thúc, thường vụ Thành ủy và thường trực Ủy ban Hành chính thành phố họp đột
xuất quyết định sơ tán khỏi nội thành từ 25 đến 30 vạn người. Sau 4 ngày khẩn
trương thực hiện, cộng với sơ tán trước, Hà Nội đã chuyển ra khỏi nội thành 26
vạn người. Đến ngày 25 tháng 4, tình hình có chiều hướng căng thẳng hơn, thành
phố quyết định sơ tán thêm 10 vạn người nữa ở nội thành, đồng thời dự kiến các
bước sơ tán tiếp theo. Sau 4 tuần lễ đánh trả các cuộc tiến công bằng không
quân và hải quân Mỹ, quân dân miền Bắc đã bắn rơi 90 máy bay, bắn cháy 20 tàu
chiến, bắt sống nhiều giặc lái. Đế quốc Mỹ vẫn không thể ngăn cản được cuộc
tiến công của quân và dân ta ở miền Nam, không giành được thế mạnh ở Hội nghị
Paris. Trước tình hình đó, ngày 8 và 9/5/1972, Tổng thống Ních-xơn triệu tập
Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ quyết định đẩy mạnh cường độ ném bom đồng thời
dùng mìn, thủy lôi phong tỏa các hải cảng miền Bắc Việt Nam nhằm cắt đứt đến
mức tối đa mọi nguồn chi viện quốc tế cho cuộc kháng chiến của nhân dân
ta, "làm cho Hà Nội không có
được các vũ khí và đồ tiếp tế cần thiết để tiếp tục chiến tranh"(Tuyên
bố của Ních-xơn. Dẫn theo Tài
liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ, Nhà xuất bản Thông tin lý luận, H.1986, trang
382). Ngày 10 và 11/5/1972, đế quốc Mỹ huy động hơn 100 lần chiếc máy bay ném
bom đánh phá Hà Nội. Cầu Long Biên, ga Yên Viên, ga Gia Lâm, sân bay Bạch Mai
là những mục tiêu chính của đợt đánh phá này. Các lực lượng phòng không và
không quân bảo vệ Hà Nội đánh trả chúng quyết liệt, bắn rơi 12 máy bay. Đặc
biệt trận địa súng máy cao xạ 14,5mm (ba khẩu) của tự vệ nhà máy điện Yên Phụ
đã đánh một trận xuất sắc vào 12 giờ trưa ngày 10/5, bắn rơi một chiếc F4. Từ
tháng 6 đến tháng 9 năm 1972, quân dân thủ đô đã liên tục chiến đấu bắn rơi
nhiều máy bay Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái, trong đó có chiếc máy bay thứ 3.700
bị bắn rơi trên miền Bắc (ngày 27/6/1972) và chiếc máy bay thứ 300 bị bắn rơi
trên bầu trời Hà Nội (ngày 7/7/1972). Nhằm tạo thêm sức mạnh trước khi có thể
đạt được một giải pháp chính trị có lợi ở Hội
nghị Paris và tạo
lợi thế cho cuộc chiến tranh cử tổng thống sắp tới, Ních-xơn quyết định tiếp
tục tiến công Thủ đô Hà Nội quyết liệt hơn. Đó là con đường, là chìa khóa mà
Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã chọn và cho rằng có thể đạt được mục đích sớm nhất.
Ngày 2/9/1972, hơn 40 lần chiếc máy bay thay nhau đánh phá sân bay Nội Bài và
khu vực Đông Anh. Ngày 10/9, 50 lần chiếc vào đánh phá cầu Long Biên (lần thứ
tư), sân bay Gia Lâm và nhiều nơi khác. Ngày 11/9, chúng bắn tên lửa xuống phố
Bà Triệu. Ngày 11/10, máy bay Mỹ tiếp tục ném bom Hà Nội phá hủy nhiều công
trình kinh tế, văn hóa, giao thông vận tải, khoa học kỹ thuật, bệnh viện... Tòa
nhà chính của cơ quan Tổng đại diện Pháp ở phố Trần Hưng Đạo bị trúng bom. Ông
Tổng đại diện Pháp Xôxini và một số nhân viên sứ quán bị bom Mỹ giết hại. Với
cuộc bầu cử tổng thống nước Mỹ vào tháng 11 năm 1972, chiến tranh ở Việt Nam
trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu phải giải quyết nếu Ních-xơn muốn trúng cử
tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa. Đầu tháng 10 năm 1972, phái đoàn ta ở Hội
nghị Paris chủ động đưa ra bản dự thảo hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Việt Nam. Trước tình thế bất lợi trên cả hai miền Nam, Bắc Việt
Nam, trước sự phản đối của dư luận quốc tế và nước Mỹ, ngày 20 và 22/10/1972,
tổng thống Mỹ gửi thông điệp cho Thủ tướng Chính phủ ta hoan nghênh thiện chí
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hứa hẹn có thể ký hiệp định chính thức vào ngày
31/10. Tuy nhiên với bản tính tráo trở, Ních-xơn tìm mọi cách dây dưa trì hoãn
việc ký hiệp định như đã hứa, đồng thời ráo riết tiến hành bước phiêu lưu mới.
Ngày 26/10/1972, Chính phủ ta ra tuyên bố về Tình hình cuộc đàm phán về vấn đề Việt Nam hiện nay nêu rõ
lập trường chính nghĩa, thái độ thiện chí của ta, vạch trần sự tráo trở của
chính quyền Mỹ, đòi Mỹ phải thực hiện nghiêm chỉnh những vấn đề đã thỏa thuận
Ngày 8/11/1972, Ních-xơn trúng cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ hai. Ngay sau đó, Mỹ
trắng trợn lật lọng, đòi phải sửa chữa lại 126 điểm trong bản dự thảo hiệp định
mà trước đó đã thỏa thuận với ta. Do sự lật lọng của Mỹ, Hội nghị Paris bế tắc.
Ngày 13/12/1972, Hen-ri Kít-xinh-giơ, cố vấn đặc biệt của phái đoàn Mỹ tuyên bố
bỏ họp vô thời hạn. Ngày 14/12/1972, với lời lẽ như một tối hậu thư, tổng thống
Mỹ gửi điện cho Chính phủ ta đòi trong vòng 72 giờ tới phải trở lại bàn đàm
phán ở Paris phải chấp nhận những yêu cầu của Mỹ, nếu không Mỹ sẽ ném bom trở
lại. Cùng với việc gửi điện cho Chính phủ ta, Ních-xơn ra lệnh cho Bộ chỉ huy
không quân chiến lược và chiến thuật thực hiện cuộc tập kích bằng máy bay chiến
lược B52 vào Hà Nội, Hải Phòng. 193 máy bay chiến lược B52, gần 50 máy
bay F111 cùng hơn 1.000 máy bay chiến thuật, 6 liên đội tàu sân bay và hàng
chục máy bay tiếp dầu KC135... được huy động cho cuộc tập kích chiến lược mang
mật danh Chiến dịch Linebacker II(Sấm
rền II). Mục đích của chiến dịch Linebacker II là tàn phá Hà Nội, Hải Phòng
hòng đánh sụp ý chí của nhân dân ta, phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng,
ngăn chặn nguồn tiếp tế của ta cho chiến trường miền Nam, giúp cho chính quyền
ngụy Sài Gòn có điều kiện củng cố lực lượng, buộc Chính phủ ta phải chấp nhận
các điều kiện của Mỹ. B52 là loại máy bay ném bom chiến lược của không quân Mỹ,
có thể hoạt động ban đêm, trong điều kiện thời tiết phức tạp, ném bom ở độ cao
từ 9.000 đến 11.000 mét. Từ khi tham chiến ở Việt Nam (năm 1965), máy bay B52
đã nhiều lần được cải tiến, đặc biệt là hệ thống tự bảo vệ. Đến tháng 12 năm
1972, mỗi máy bay B52 đã trở thành một trung tâm tác chiến điện tử với 16 máy
gây nhiễu tích cực bằng điện tử, 2 máy gây nhiễu tích cực bằng sợi kim loại
(khi hoạt động có thể phủ trắng một
khu vực rộng 450 ki lô mét vuông) và 2 quả tên lửa khi phóng ra sẽ có tín hiệu
như B52 để đánh lừa ra-đa đối phương. Mỗi chiếc B52 được ví như một kho bom lưu động trên không có
thể mang được 30 tấn bom. Mỗi tốp (ba chiếc) có thể rải thảm từ 80 đến 90 tấn
bom trên một diện rộng, có thể thay thế cho 120 - 200 máy bay ném bom chiến
thuật, hiệu quả lại cao hơn. Với sức mạnh tàn phá to lớn của máy bay B52, đế
quốc Mỹ cho rằng chỉ cần mở chiến dịch tập kích trong 3 ngày cũng đủ phá hủy Hà
Nội, Hải Phòng. Sau nhiều lần xuất kích mà chưa bị trừng trị, đặc biệt là sau
vụ ném bom rải thảm thành phố cảng Hải Phòng (ngày 16/4/1972), giới quân sự Mỹ
càng chủ quan cho rằng B52 có thể
đánh bất kỳ mục tiêu nào của Bắc Việt Nam. Chúng tin rằng sử dụng loại
vũ khí chiến lược này có thể đè bẹp ý chí chiến đấu của quân và dân ta, buộc ta
phải khuất phục, chấp nhận các điều khoản của Mỹ, đồng thời để chứng tỏ với thế
giới sức mạnh của "thần tượng không lực Hoa Kỳ". Chúng cũng dự tính
rằng hệ thống phòng không của Bắc Việt Nam sẽ không thể phát huy được hiệu quả
trước đòn tiến công của B52 và tỉ lệ tổn thất của B52 là không đáng kể. Việc đế
quốc Mỹ sử dụng máy bay chiến lược B52 đánh phá Hà Nội không phải là điều bất
ngờ đối với ta. Năm 1967, khi làm việc với Bộ tư lệnh Phòng không - Không quân,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Sớm
muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu
thua. Phải dự kiến trước tình
huống càng sớm càng tốt để có thời gian mà suy ngẫm chuẩn bị" (Viện
Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến
thắng B52, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, H.1997, trang 44). Thực hiện
lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã có bộ phận vào chiến trường
nghiên cứu đánh B52 và chuẩn bị kế hoạch đánh B52 bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Khi
cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bắt đầu, qua đối chọi liên tục với máy
bay B52 trên bầu trời các tỉnh Quảng Bình, Vĩnh Linh, Nghệ An, Thanh Hóa, chúng
ta đã tổng kết được nhiều kinh nghiệm bổ ích trong phòng chống và đánh trả. Đến
năm 1972, việc nghiên cứu cách đánh B52 càng được chú ý. Tháng 7 năm 1972 Bộ
Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ thị cho Quân chủng Phòng không -
Không quân thực hiện gấp việc tiếp tục nghiên cứu về triển khai kế hoạch đánh
máy bay B52, biên soạn tài liệu huấn luyện bộ đội đánh máy bay B52 trong các
tình huống phức tạp. Tháng 11 năm 1972 hội nghị chuyên đề đánh B52 của bộ đội
tên lửa được tổ chức tại sở chỉ huy Sư đoàn phòng không 361 bảo vệ Hà Nội. Sau
hội nghị, tài liệu "Cách đánh B52" được chính thức phát hành. Một số
sân bay dã chiến được gấp rút xây dựng. Các biện pháp nghi binh, lừa địch, bố
trí đội hình ra-đa để phát hiện địch kịp thời được triển khai khẩn trương. Công
tác hậu cần, kỹ thuật được chuẩn bị chu đáo, đặc biệt là bổ sung đạn dược cho
lực lượng cao xạ và xăng dầu cho máy bay. Tại Hà Nội, công tác chuẩn bị chiến
đấu cũng hết sức khẩn trương. Thành phố gấp rút cho sơ tán người già, trẻ em và
những người không có nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất ra khỏi nội thành với thời
hạn phải hoàn thành trước ngày 4/12/1972. Đến ngày 18/12/1972 nội thành đã sơ
tán được khoảng 20 vạn người. Trước đó, ngày 27/11/1972, lực lượng phòng không
bảo vệ Hà Nội được phổ biến nhận định của Bộ Tổng tư lệnh: "Địch sẽ đánh phá trở lại miền Bắc với
mức độ ác liệt hơn, kể cả dùng B52 đánh ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng".
Cùng ngày, Quân chủng Phòng không - Không quân nhận được lệnh "tập trung mọi khả năng, nhằm đúng đối
tượng B52 mà tiêu diệt". Với tinh thần chủ động, khẩn trương, ngày
4/12/1972, Quân chủng chính thức báo cáo lên Bộ Tổng Tham mưu mọi công tác
chuẩn bị đánh B52 đã xong, phương án đánh B52 đã sẵn sàng. Giữa tháng 12 năm
1972, Hội đồng Phòng không và Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội tổ chức diễn tập chiến
đấu khắc phục hậu quả trên phạm vi toàn thành phố. Ngoài lực lượng thường trực
chiến đấu, hệ thống còi loa báo động, thông tin liên lạc, đài quan sát cũng như
lực lượng khắc phục hậu quả qua diễn tập có nhiều tiến bộ. Tuyến y tế từ thành
phố xuống cơ sở có thể cấp cứu 5 nghìn người một ngày, các đội cứu sập, cứu hỏa
ở các tuyến được bổ sung thêm phương tiện, thiết bị. Kế hoạch sửa chữa điện,
nước, chôn cất người bị nạn, vệ sinh môi trường... được các ngành chuẩn bị với
khả năng cao nhất. Tình hình ngày càng khẩn trương, ngoài Sở Giao thông vận tải
thành phố, Nhà nước thành lập Ban
bảo đảm giao thông vận tải khu vực do đồng chí Đỗ Mười, Phó Thủ
tướng Chính phủ làm Trưởng ban. Các bến phà qua sông Hồng ở khu vực Chương
Dương, Khuyến Lương, Chèm và một số cầu phao, phà qua sông Đuống được gấp rút
củng cố. Ngành giao thông vận tải đường sắt đã vận dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật lắp ráp thành công phà và cầu phao cho xe lửa. Cầu phao cho xe lửa có sức
tải lớn nhưng không thuận tiện trong mùa mưa lũ, vì vậy phương tiện chủ yếu
chuyển tàu hỏa qua sông là phà xe lửa. Trong thời điểm cuối tháng 11 đầu tháng
12 năm 1972, tại phía nam cảng sông Hồng, bằng 2 chiếc phà xe lửa, đội cầu
đường Hà Nội - Thái Nguyên đã vận chuyển được một khối lượng hàng hóa lớn.
Trung bình một ngày đêm có 24 lượt toa tàu với hàng ngàn tấn hàng được chuyển
từ bờ bắc sang bờ nam. Hàng qua sông chủ yếu là vũ khí nặng và trang bị kỹ
thuật quân sự. Phà xe lửa được ghi nhận như một công trình khoa học mới của
ngành giao thông vận tải đường sắt nước ta. Nó được áp dụng đúng lúc, có hiệu
quả, góp phần tích cực cùng các phương tiện khác đáp ứng nhu cầu vận chuyển,
phục vụ kháng chiến. Trải qua hơn 6 tháng chiến đấu, đến tháng 12 năm 1972, lực
lượng trực tiếp chiến đấu bảo vệ thủ đô có 4 trung đoàn không quân tiêm kích, 3
trung đoàn tên lửa, 6 trung đoàn pháo cao xạ, một số tàu hải quân. Dân quân tự
vệ thủ đô có 4 đại đội cao xạ 100 mm (20 khẩu), 92 trận địa súng máy cao xạ
14,5mm, hơn 100 trận địa súng 12,7mm, đại liên, trung liên. Ngoài ra còn có hơn
4 vạn súng trường, tiểu liên, súng cối, ĐKZ tạo thành lưới lửa phòng không tầm
thấp đồng thời sẵn sàng cơ động đánh địch đổ bộ đường không và truy lùng giặc
lái Mỹ nhảy dù. Một số tỉnh giáp với Hà Nội như Hà Bắc, Vĩnh Phú, Hà Tây, Hải
Hưng, Nam Hà (địa danh hành chính thời kỳ này)... cũng đã sẵn sàng phương án
tác chiến và khắc phục hậu quả, hỗ trợ cho Hà Nội. Để đảm bảo liên lạc thông
suốt, kịp thời, lực lượng thông tin của Bộ tư lệnh Thủ đô và Bộ tư lệnh Thông
tin kết hợp với thông tin bưu điện nối liền các mạng liên lạc điện thoại, vô
tuyến điện từ Trung ương xuống thành phố và các huyện. Ngoài ra còn có xe mô
tô, xe đạp và các tổ truyền đạt chạy bộ từ xã, huyện lên thành phố. Qua gần 2
tháng tạm ngừng, ngày 17/12/1972, Mỹ ném bom trở lại tỉnh Thái Bình, thả bổ
sung thủy lôi và bắn tên lửa xuống cảng và thành phố Hải Phòng. 10h30 ngày 17/12/1972, theo lệnh của Bộ Tổng
tham mưu, toàn bộ lực lượng của quân chủng phòng không – không quân, cùng lực
lượng dân quân tự vệ của Hà Nội, Hải Phòng… đã vào tư thế sẵn sàng chiến đấu
cao nhất. Quân dân Hà Nội, Hải Phòng… đã thực sự chủ động đi vào chiến dịch
lịch sử 12 ngày đêm tháng chạp năm 1972. Đêm ngày 18/12, binh chủng ra đa cảnh
giới dẫn đường đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ canh trời Tổ quốc. Lúc 19h, Đại
đội 16 ra đa phát hiện có nhiễu B52, kíp trắc thủ trực ban của đại đội đã kịp
thời thông báo những tọa độ đầu tiên của B52 khi đang bay lên phía Thượng Lào.
Khi tốp B52 đầu tiên còn cách Hà Nội 300 km, toàn bộ lực lượng của Quân chủng
phòng không – không quân vào tư thế sẵn sàng chiến đấu cấp I. Đến 22h20, thực
hiện lệnh của Tiểu đoàn trường D59.E261, sĩ quan điều khiển Dương Văn Thuận đã
ấn nút phóng đưa quả đạn tên lửa mang số hiệu C202A vạch trời đêm bay trúng
đích hạ tại chỗ chiếc B52-G xuất phát từ Guam, rơi xuống địa phận Phù Lỗ, Đông
Anh, Hà Nội. Đây là chiếc B52 đầu tiên bị bắn rơi tại chỗ trong chiến dịch,
cũng là chiến công đầu, ngay trong ngày đầu của quân dân Thủ đô anh hùng. Đêm
đầu tiên của chiến dịch, quân dân ta bắn rơi 3 pháo đài bay B52, bắt sống 7
giặc lái. Trong 12 ngày đêm của chiến dịch lịch sử, Binh chủng tên lửa lập
chiến công cao nhất: Bắn rơi 36 trên tổng số 81 máy bay các loại, trong đó có
29 máy bay B52 trên tổng số 34 máy bay B52 bị bắn rơi. Tất cả 16 máy bay B52 bị
bắn rơi tại chỗ đều là chiến công của Bộ đội tên lửa anh hùng. (Các Tiểu đoàn
tên lửa bắn rơi tại chỗ 16 B52 là: Tiểu đoàn 77 bắn rơi 4 B52, có 3 B52 rơi tại
chỗ. Tiểu đoàn 57 bắn rơi 4 B52, có 2 B52 rơi tại chỗ. Tiểu đoàn 78 bắn rơi 3
B52, có 2 B52 rơi tại chỗ. Tiểu đoàn 93 bắn rơi 3 B52 đều rơi tại chỗ. Tiểu
đoàn 59 bắn rơi 3 B52, có 1 B52 rơi tại chỗ. Tiểu đoàn 72 bắn rơi 1 B52 rơi tại
chỗ Hồ Hữu Tiệp quận Ba Đình Hà Nội). Các cán bộ chiến sĩ tên lửa đã sáng tạo
những cách đánh đầy bản lĩnh, thông minh để xử lý mọi thủ đoạn gây nhiễu, gạt
được các tên lửa không đối đất Shrike, tách được nhiều B52 giả, tiết kiệm tên
lửa, nâng cao hiệu quả tiêu diệt B52. Các chiến sĩ lái xe chở tên lửa đã vượt
qua bom đạn cung cấp đạn kịp thời cho các trận địa tên lửa. Các chiến sĩ của
các Tiểu đoàn 5 lắp ráp, nạp nhiên liệu cho tên lửa đã sáng tạo nên những sáng
kiến khôi phục hàng nghìn quả tên lửa quá đát, có những chiến sĩ chấp nhận
nhiễm độc của nhiên liệu tên lửa nhằm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ này. Bộ đội
không quân dũng cảm, thông minh, sáng tạo khắc phục biết bao khó khăn để chiến
đấu với địch: Có lúc phải dùng trực thăng cẩu MIG21 đi giấu để tránh máy bay
trinh sát địch dò tìm. Hay địch đánh hỏng đường băng chính, ta dùng đường băng
phụ; đường băng phụ hỏng ta dùng đường lăn, đường lăn hỏng ta cất cánh từ các
sân bay dã chiến vòng ngoài. Thực hiện khẩu hiệu: "Địch phá ta sửa, ta
bay". Mỗi lần đường băng bị bắn phá, công binh phối hợp với nhân dân địa
phương lập tức san lấp, sửa chữa cho máy bay cất cánh. Đối phó với số lượng máy
bay của địch nhiều, không quân ta đánh du kích, dùng tốp nhỏ, chiếc lẻ với khẩu
hiệu: "Một người, một máy bay vẫn tấn công", bất ngờ đột kích, vượt
qua hàng đàn máy bay hộ tống tiếp cận điểm yếu của B52 tiêu diệt địch. Đêm ngày
27/12 phi công Phạm Tuân và đêm 28/7 phi công Vũ Xuân Thiều đã lập công xuất
sắc bắn rơi 02 máy bay B52. Không quân nhân dân Việt Nam là lực lượng không
quân đầu tiên trên thế giới bắn rơi pháo đài bay B52 của Mỹ. Bộ đội pháo cao xạ
được giao nhiệm vụ chủ yếu đánh máy bay chiến thuật để trực tiếp bảo vệ các mục
tiêu và nhất là bảo vệ các trận địa tên lửa, các sân bay. Chính các đơn vị cao
xạ tầm thấp đã bố trí đón lõng và tổ chức cảnh giới tốt nên đã hỗ trợ kịp thời
bắn rơi tại chỗ 5 máy bay cánh cụp cánh xòe F111 trên tổng số 48 chiếc được huy
động trong chiến dịch. Các đơn vị pháo trung cao 100 ly đã bắn rơi 03 máy bay
B52 trong 02 đêm 24 và 26/12. Bộ đội cao xạ trong chiến dịch lịch sử đã đã lập
công xuất sắc bắn rơi 39 máy bay trên tổng số 81 chiếc (48%). Một nét đặc sắc
trong tư tưởng chỉ đạo tác chiến trong phương án đánh trả cuộc tập kích chiến
lược đường không bằng B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng là đã dự báo với độ
chính xác rất cao các đường bay mà B52 sử dụng để tấn công Hà Nội. Vì xác định
đúng các đường bay B52 vào đánh Hà Nội, Hải Phòng nên số lượng đơn vị tên lửa,
pháo phòng không, MIG21 của ta rất có hạn nhưng đã bố trí đủ lực lượng cần
thiết trên từng đường bay, nhất là tạo được lưới lửa nhiều tầng trên các hướng
đường bay chủ yếu.Chưa bao giờ đế quốc Mỹ chịu tổn thất nặng nề như trong chiến
dịch 12 ngày đêm đánh vào Hà Nội, Hải Phòng… Trong chiến dịch lịch sử này, 81
máy bay Mỹ bị bắn rơi trong đó: 34 máy bay B52, 05 máy bay F111, 21 máy bay F4,
04 máy bay A6A, 12 máy bay A7, 01 máy bay F105, 02 máy bay RA5C, 01 trực thăng
HH53, 01 trinh sát 147SC. Đúng như Phó Chỉ huy không quân chiến lược Mỹ, tướng
George Eade phải cay đắng thú nhận: "Tổn thất về máy bay chiến lược B52
cùng phi hành đoàn là hết sức nặng nề, là đòn choáng váng đánh thẳng vào những
nhà vạch kế hoạch của Lầu Năm góc". Chiến thắng "Điện Biên Phủ trên
không" là đài vinh quang chói lọi, là niềm kiêu hãnh tự hào về Đảng vĩ
đại, Bác Hồ kính yêu, về dân tộc Việt Nam anh hùng và quân đội nhân dân Việt
Nam anh hùng, về quân chủng phòng không – không quân anh hùng với bốn binh
chủng: Tên lửa, không quân, pháo cao xạ, ra đa. Chiến công hiển hách này là sự
minh chứng hùng hồn sức mạnh của văn hóa Việt Nam, sức mạnh của sự kết hợp hài
hòa các yếu tố cách mạng và khoa học, giữa bản lĩnh vững vàng, khí phách tiến
công, quyết đánh và trí tuệ biết đánh thắng, sự kết hợp giữa tinh thần lạc quan
tin tưởng với đức hy sinh cao thượng. Sự kết hợp hài hòa các yếu tố tinh thần
này để tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền văn hóa Việt Nam. Việc trân trọng, giữ
gìn, phát huy mạnh mẽ các giá trị tinh thần trên đây sẽ tạo động lực to lớn để
thực hiện thắng lợi 02 nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiện thực hóa thắng lợi mục tiêu: Dân
giàu nước mạnh dân chủ, công bằng văn minh. Bộ đội không quân dũng cảm, thông
minh, sáng tạo khắc phục biết bao khó khăn để chiến đấu với địch: Có lúc phải
dùng trực thăng cẩu MIG21 đi giấu để tránh máy bay trinh sát địch dò tìm. Hay
địch đánh hỏng đường băng chính, ta dùng đường băng phụ; đường băng phụ hỏng ta
dùng đường lăn, đường lăn hỏng ta cất cánh từ các sân bay dã chiến vòng ngoài.
Thực hiện khẩu hiệu: "Địch phá ta sửa, ta bay". Mỗi lần đường băng bị
bắn phá, công binh phối hợp với nhân dân địa phương lập tức san lấp, sửa chữa
cho máy bay cất cánh. Đối phó với số lượng máy bay của địch nhiều, không quân
ta đánh du kích, dùng tốp nhỏ, chiếc lẻ với khẩu hiệu: "Một người, một máy
bay vẫn tấn công", bất ngờ đột kích, vượt qua hàng đàn máy bay hộ tống
tiếp cận điểm yếu của B52 tiêu diệt địch. Đêm ngày 27/12 phi công Phạm Tuân và
đêm 28/7 phi công Vũ Xuân Thiều đã lập công xuất sắc bắn rơi 02 máy bay B52.
Không quân nhân dân Việt Nam là lực lượng không quân đầu tiên trên thế giới bắn
rơi pháo đài bay B52 của Mỹ. Bộ đội pháo cao xạ được giao nhiệm vụ chủ yếu đánh
máy bay chiến thuật để trực tiếp bảo vệ các mục tiêu và nhất là bảo vệ các trận
địa tên lửa, các sân bay. Chính các đơn vị cao xạ tầm thấp đã bố trí đón lõng
và tổ chức cảnh giới tốt nên đã hỗ trợ kịp thời bắn rơi tại chỗ 5 máy bay cánh
cụp cánh xòe F111 trên tổng số 48 chiếc được huy động trong chiến dịch. Các đơn
vị pháo trung cao 100 ly đã bắn rơi 03 máy bay B52 trong 02 đêm 24 và 26/12. Bộ
đội cao xạ trong chiến dịch lịch sử đã đã lập công xuất sắc bắn rơi 39 máy bay
trên tổng số 81 chiếc (48%). Một nét đặc sắc trong tư tưởng chỉ đạo tác chiến
trong phương án đánh trả cuộc tập kích chiến lược đường không bằng B52 của Mỹ
vào Hà Nội, Hải Phòng là đã dự báo với độ chính xác rất cao các đường bay mà
B52 sử dụng để tấn công Hà Nội. Vì xác định đúng các đường bay B52 vào đánh Hà
Nội, Hải Phòng nên số lượng đơn vị tên lửa, pháo phòng không, MIG21 của ta rất
có hạn nhưng đã bố trí đủ lực lượng cần thiết trên từng đường bay, nhất là tạo
được lưới lửa nhiều tầng trên các hướng đường bay chủ yếu. Chưa bao giờ đế quốc
Mỹ chịu tổn thất nặng nề như trong chiến dịch 12 ngày đêm đánh vào Hà Nội, Hải
Phòng… Trong chiến dịch lịch sử này, 81 máy bay Mỹ bị bắn rơi trong đó: 34 máy
bay B52, 05 máy bay F111, 21 máy bay F4, 04 máy bay A6A, 12 máy bay A7, 01 máy
bay F105, 02 máy bay RA5C, 01 trực thăng HH53, 01 trinh sát 147SC. Đúng như Phó
Chỉ huy không quân chiến lược Mỹ, tướng George Eade phải cay đắng thú nhận:
"Tổn thất về máy bay chiến lược B52 cùng phi hành đoàn là hết sức nặng nề,
là đòn choáng váng đánh thẳng vào những nhà vạch kế hoạch của Lầu Năm góc".
Chiến thắng "Điện Biên Phủ trên không" là đài vinh quang chói lọi, là
niềm kiêu hãnh tự hào về Đảng vĩ đại, Bác Hồ kính yêu, về dân tộc Việt Nam anh
hùng và quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, về quân chủng phòng không – không
quân anh hùng với bốn binh chủng: Tên lửa, không quân, pháo cao xạ, ra đa. Chiến
công hiển hách này là sự minh chứng hùng hồn sức mạnh của văn hóa Việt Nam, sức
mạnh của sự kết hợp hài hòa các yếu tố cách mạng và khoa học, giữa bản lĩnh
vững vàng, khí phách tiến công, quyết đánh và trí tuệ biết đánh thắng, sự kết
hợp giữa tinh thần lạc quan tin tưởng với đức hy sinh cao thượng. Sự kết hợp
hài hòa các yếu tố tinh thần này để tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền văn hóa
Việt Nam. Việc trân trọng, giữ gìn, phát huy mạnh mẽ các giá trị tinh thần trên
đây sẽ tạo động lực to lớn để thực hiện thắng lợi 02 nhiệm vụ chiến lược: Xây
dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiện
thực hóa thắng lợi mục tiêu: Dân giàu nước mạnh dân chủ, công bằng văn minh.