Phòng GD $ ĐT Huyện Sóc Sơn
Trường THCS Đức Hoà
Giới
thiệu sách tháng 2
Cuốn sách “
Xin chữ”
Đức Hoà, ngày 19 tháng 02 năm 2024
Nhân kỷ niệm
63 năm ngày giải phỏng thủ đô, nhà xuất bản Hà Nội đã cho ra mắt cuốn sách “Xin
chữ” ,của tác giả Phạm Quang Nghị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư
Thành ủy Hà Nội. Với hơn 386 trang, cuốn sách tập hợp 82 bài viết tâm đắc chứa
đựng những phát hiện, suy tư, đúc kết sâu sắc về văn hóa và con người gắn với
thời gian, với công việc và cuộc sống mà tác giả đã gắn bó, đã trải nghiệm. Trong Xin chữ, tác giả Phạm Quang Nghị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị,
nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội, nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là
Bộ VHTTDL) chia thành năm phần, với Vươn tới những giá trị chân-thiện-mỹ; Hà
Nội trong tôi; Sống trong lòng người; Những khoảnh khắc cuả cuộc đời, và Mở một
cuốn sách thấy một con người.
“Hiểu
được người Hà Nội quả là không dễ…”
Ở mỗi phần lại chất chứa những giá trị riêng có của tác giả, chuyển tải những
suy ngẫm hết sức cô đọng, khó lòng bóc tách và phân giải, bởi thế người viết tự
nhận thấy “lực bất tòng tâm” của một kẻ hậu sinh nên không đủ can đảm đi sâu với
tham vọng “ôm hết”, mà chỉ dám bày tỏ suy nghĩ vốn dĩ nông cạn của mình như một
lát cắt rất mỏng về cuốn sách.
Viết về đặc tính hay tính cách người Hà Nội thì mấy chục năm qua đã có nhiều
nhà chuyên môn trên nhiều lĩnh vực dày công điền dã, nghiên cứu tìm hiểu và
công bố. Thậm chí đã có không ít cuộc hội thảo, những công trình khoa học ra đời
nhằm đáp ứng cho công tác hoạch định chính sách theo hướng bảo tồn, phát huy những
nét tinh túy của người Tràng An. Những tưởng như thế là đã phần nào khắc họa,
làm toát lên tính cách người Hà Nội xưa và nay, liệu có còn gì để phải bàn luận
thêm. Nhưng khi chạm đến “Mười năm, một lát cắt thời gian” (Đôi dòng tâm sự),
tác giả Phạm Quang Nghị đã có những quan sát, nhận định vô cùng tinh tế khiến
cho nhiều người phải suy ngẫm một cách nghiêm túc, nếu muốn tìm hiểu sâu hơn về
người Hà Nội.
Quả thật, nếu tác giả không thật sự sâu sát, gắn chặt với đời sống thực tiễn,
dành nhiều thời gian tâm sức tìm hiểu, nghiên cứu trên tảng nền sẵn có trước hết
là để phục vụ cho công tác lãnh đạo, điều hành trên cương vị người đứng đầu cấp
ủy thành phố, thì chắc rằng khó đưa ra những đúc kết: “Nói đến tính cách người
Hà Nội, người Thủ đô không thể không nói tới nét đặc trưng là luôn đặt ra yêu cầu,
đòi hỏi cao, gần như đến mức hoàn hảo, cầu toàn. Người Hà Nội không chấp nhận sự
qua loa, vội vàng, cẩu thả. Và cũng không dễ dàng chấp nhận sự bắt chước, bê
nguyên xi kinh nghiệm của bất cứ nơi nào. Bởi người Hà Nội vốn sâu sắc, tinh tế
vô cùng”.
Để người đọc luôn hướng về Thủ đô dễ hiểu hơn nữa, ông đưa ra những ví von thật
sâu sắc, và dám chắc rằng từ trước đến nay chưa ai viết được một cách tinh tường
như vậy về người Hà Nội: “Thường ngày luôn nhẹ nhàng, tĩnh lặng như mặt nước hồ
Gươm, trong veo như bầu trời thu Hà Nội; lịch lãm, duyên dáng như nét xưa phố cổ
và nồng nàn như hoa sữa về khuya… Nhưng khi bước vào những thử thách thì người
Hà Nội hiên ngang lẫm liệt trong tư thế rồng bay, sẵn sàng “Quyết tử để Tổ quốc
quyết sinh”, làm nên những chiến công “Điện Biên Phủ trên không” bất diệt....”.
Chưa hết, tác giả còn phát hiện, “Người Hà Nội còn có một nét đáng yêu khác.
Ngay cả khi thật lòng yêu thích, hoặc không vừa ý một điều gì nhưng ít khi nói
ra thành lời”. Nhưng cuối cùng tự bản thân tác giả cũng phải thừa nhận một thực
tế: “Hiểu được người Hà Nội quả là không dễ, bởi nơi đây hội tụ đậm đặc nhất,
tiêu biểu nhất cho trí tuệ, tâm hồn và bề dày của truyền thống Thăng Long - Hà
Nội, của văn hóa Việt Nam”.
Dám chắc rằng, những nhận định mang tính đúc kết ở trên của tác giả sẽ là chất
xúc tác tạo ra “ngòi nổ” cho cuộc tranh luận khoa học về tính cách người Hà Nội,
đặng đi tới sự đồng thuận cao hơn nữa chứ không thể dừng lại ở chỗ, “Hiểu được
người Hà Nội quả là không dễ”.
“Ít có người xin những chữ như
bác”
Xin chữ là một trong những bài được tác giả Phạm Quang Nghị mới viết gần đây,
chính xác là ngày 8 tháng 5 năm 2017. Cũng có thể xem đây là bài viết mới nhất
của ông. Nghĩa là, Xin chữ ra đời sau khi ông nghỉ công tác. Thế nhưng, vì sao
câu chuyện hoàn toàn có thật diễn ra cách đây vừa tròn 15 năm, khi đó tác giả
đang giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Văn hóa và Thông tin, nay là Bộ VHTTDL, mà bây
giờ lại mới được viết ra?
Sau những tháng năm công tác, bây giờ tác giả được trở về với “Những niềm vui
giản dị” là “sau mười năm, lại được đi bộ trong công viên”... để có những khám
phá rất đỗi đời thường. Chắc là trong những lúc bách bộ khi những gánh nặng
công việc cùng những mối lo trách nhiệm không còn như trước đây, tác giả Phạm
Quang Nghị đã tự mình suy xét về chuyện xin chữ từ những năm tháng thuở xưa:
“Tôi thường thấy mọi người thường xin những chữ cầu chúc an lành - phú quý -
cao sang chứ có mấy ai lại đi xin những chữ để buộc thêm sợi dây vất vả vào
mình. Ngẫm lại, biết đâu, việc xin chữ của mỗi người cũng là mệnh số”. “Xin chữ” cho thấy Phạm Quang Nghị không chỉ là một vị
lãnh đạo xuất sắc, một nhà lý luận sáng tạo của Đảng ta mà còn là một nhà báo,
một nhà văn tài hoa, tinh tế, một con người thấu hiểu lẽ đời, sự đời, tình đời,
một tâm hồn vị tha, ngay thắng, trong sáng. Tôi nhớ, đó là năm 2002. Trong một
chuyến đi thăm, làm việc với các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, khi xe ô tô
đang lắc lư, uốn lượn trên các đoạn đường đồi dốc quanh co, khúc khuỷu của Tây
Nguyên thì tôi có điện thoại. Người gọi là Giám đốc Bảo tàng Mỹ Thuật, PGS.TS
Trương Quốc Bình. Anh thông báo hiện đang có một chuyến thăm hữu nghị giao lưu
văn hóa của một nhóm các nhà thư pháp hàng đầu Nhật Bản sang Việt Nam. Vị trưởng
đoàn Nhật Bản có nhã ý muốn đề chữ tặng Bộ trưởng Văn Hóa Thông tin và muốn biết
Bộ trưởng đề nghị ông viết tặng chữ gì.
Qua điện thoại tôi hỏi lại PGS.TS Trương Quốc
Bình:
Ngoài tôi ra, bạn có
tặng chữ cho ai là lãnh đạo Việt Nam không?
Dạ có.
Ai vậy anh Bình?
Dạ, bác Nguyễn D.N., Bộ trưởng Bộ N.
Thế đồng chí Bộ trưởng Bộ N “xin” chữ gì? – Tôi hỏi lại để tham khảo và cũng là
để đầu óc còn kịp suy nghĩ tìm chữ.
Bác N “xin” hai chữ ĐẠI AN!
Tôi thầm nghĩ, đồng chí Bộ trưởng Bộ N
“xin” hai chữ ấy chắc là cũng có nguyên do. Đó là thời điểm sau Đại hội IX,
trong Bộ N cũng đang có những việc khó khăn, nhất là việc sắp xếp, bố trí nhân
sự sau Đại hội. Đồng chí Bộ trưởng “xin” hai chữ ấy cũng là mong ước chân thành
cho chính mình và cho công việc của Bộ. Còn tôi sẽ “xin” chữ gì đây? Những suy
nghĩ thoáng qua rất nhanh trong đầu giữa lúc chiếc xe ô tô đang lắc lư, gầm gừ
leo dốc. Nhìn qua cửa xe, trời đất Tây Nguyên giao hòa đẹp như tranh. Thu vào
tầm nhìn là một không gian bao la của giang sơn đất nước. Từng mảng khối thiên
nhiên tươi xanh, hùng vĩ. Những con dốc uốn lượn quanh co, đèo cao, vực thẳm
hun hút. Núi rừng Tây Nguyên vào xuân đẹp trong từng búp lá non tơ óng ả. Từng
mảng màu đậm nhạt khác nhau khoe sắc dưới ánh nắng của bầu trời xuân cao xanh
lồng lộng. Lúc này, tôi cần phải trả lời anh Bình để bạn viết cho chữ đầu xuân.
Tôi chợt nghĩ, nếu có chữ nào diễn tả, ca ngợi được vẻ đẹp và tình yêu đất nước
đang tràn ngập trong lòng mình thì thật là đắc nhân tâm. Nhưng rồi tôi lại
nghĩ, có lẽ tôi cần xin một chữ khác, mang một ý nghĩa, một phương châm, một lẽ
sống mà mình hằng tâm niệm, để tự nhắc mình và để mọi người cùng chia sẻ.
Lâu nay ai cũng hiểu việc xin chữ, tặng
chữ, nhất là vào những dịp đầu năm, mừng thọ, lên chức không chỉ là món quà, là
lời chúc mừng mang ý nghĩa tinh thần cao quý trong giao tiếp ứng xử, mà còn là
thể hiện mong ước thiết tha của mỗi người. Vì thế người ta thường tặng cho nhau
những chữ mang ý nghĩa chúc phúc, cao sang, tốt lành, để cầu tài, cầu lộc như
Phúc – Lộc – Thọ, hoặc chữ Tâm, chữ Đức,… Tôi cũng có những mong ước chung như
mọi người và cũng nghĩ những chữ đó về ý nghĩa đều rất hay, rất đẹp. Nhưng từ
lâu tôi luôn tâm đắc với mấy chữ không phải cầu danh lợi mà là để nhắc nhở, răn
dạy mình sống và làm theo. Dù gì thì mình cũng là quan chức mà quan chức thì
thời nào cũng cần một sự liêm chính, đúng mực. Ở đời, chẳng ai có thể tự cho
mình là người hoàn hảo. Nhưng bất cứ ai cũng cần phấn đấu, lu`yện rèn để trở
thành người tốt, hữu ích cho gia đình và xã hội. Ngày xưa và bây giờ đều không
thiếu những quan chức nịnh trên nạt dưới, vinh thân phì gia, tranh công đổ
lỗi…Với loại quan chức đó những người tốt thường tìm cách lánh xa. Nhưng trong
đời, cũng không hiếm người kém cỏi cả về bản lĩnh cũng như nhân cách, thấy thủ
trưởng làm sai, nói sai mà cứ “bốc thơm” nịnh khen lấy dược, thấy người yếu thế
bị hàm oan, trù dập mà vẫn a dua, a tòng phụ họa cấp trên…Đành rằng, có khi
mình là cấp dưới nên không đủ thẩm quyền để xét xử hoặc không có đủ dũng khí để
can ngăn, nhưng nếu là người ngay thẳng hoặc còn có chút liêm chính thì chí ít
cũng không thể cho phép mình đánh tráo lương tâm, đạo đức. Những suy nghĩ miên
man về chữ nghĩa cứ quấn quýt trong đầu, trong lúc ngoài Hà Nội anh Bình và
những người bạn Nhật Bản đang đợi tôi trả lời.
Ấy là nói cho ra lý lẽ vì sao sau một hồi suy nghĩ tôi lại nói với Giám đốc Bảo
tàng Mỹ thuật Việt Nam Trương Quốc Bình “xin” cho tôi chữ: QUANG MINH CHÍNH
ĐẠI. Bốn chữ này luôn là lời giáo huấn hết sức cô đọng và quan trọng đối với
những người “làm quan” trong mọi thời đại. Tôi nhớ có lần vào thăm Cố cung ở
Bắc Kinh cũng thấy có bức đại tự đề bốn chữ này treo ở cửa công đường. Khi ấy
tôi đã tự tay đưa máy ảnh ra chụp bức đại tự này. Tra cứu, cắt nghĩa để hiểu
cho đầy đủ ý nghĩa của bốn chữ này cũng thật là thú vị. Tôi không chỉ cảm nhận
mà thực sự luôn tâm niệm, định hướng cho mình trong ứng xử, giao tiếp, nhất là
trong xử lý công việc hằng ngày ở chốn quan trường là phải luôn giữ cho lòng dạ
mình trong sáng, ngay thẳng, phải đường hoàng, minh bạch, khách quan. Cố gắng
không làm bất kỳ điều gì gây oan sai cho người khác cũng như luôn tự khép mình
vào kỷ cương, phép nước, không để người khác lôi cuốn, xúi giục mình làm những
điều sai trái, khuất tất.
Trên đời, dẫu có lúc thời thế nhiễu
nhương, hiền tài hiếm như lá mùa thu. Có những lúc tình thế buộc ai đó “vì thời
thế thế thời phải thế”. Nhưng mặc cho người đười chế nhạo “Quân tử nhất ngôn
quân tử dại”, “Thật thà ăn cháo, láo nháo ăn cơm”, trong thiên hạ vẫn không khi
nào hết người trung dũng dám hy sinh lợi ích cá nhân để phụng sự nhân dân, đất
nước. Xưa nay những người tốt trong thiên hạ vẫn luôn hướng theo ánh sáng của
những ngôi sao dẫn đường, noi theo những tấm gương tốt của những người Liêm
Chính.
Từ lâu, tôi rất thích câu
nói của danh nhân triết học Aristốt: “Tôi rất yêu quý thầy tôi (Platon), nhưng
tôi còn yêu quý chân lý hơn” . Dù kính trọng thầy, nhưng khi phải đưa ra lựa
chọn, thì chân lý phải được đặt ở vị trí cao hơn. Dành tình yêu lớn hơn cho cái
đúng, cho chân lý đấy mới đích thực là nhân cách của kẻ sĩ, của nhà khoa học và
các đấng bậc quan chức của muôn đời – Chỉ ai đó không đủ sáng suốt hoặc thiếu
đạo đức, tài năng mới ghen tỵ, tức tối vì những lời nói thẳng. Phẩm chất ấy của
nhà triết học Aristốt cũng giống như Galilê, dám nói ra chân lý khoa học dù
phải trả giá bằng chính sinh mạng của mình khi ông nói những điều trái với đức
tin tôn giáo. Dù phải bước lên dàn hỏa thiêu ông vẫn hiên ngang bảo vệ chân lý:
“Dù sao, trái đất vẫn quay”. Đó là những câu nói bất hủ đầy dũng khí, lấp lánh
qua thời gian, xuyên thủng mọi thành trì bạo lực, quyền uy, phản khoa học. QUANG
MINH CHÍNH ĐẠI – những chữ ấy đối với tôi từ lâu tôi coi như tôn chỉ, mục đích,
phương chân xử thế trong cuộc sống, nhất là ở chốn công đường. Những chữ ấy
luôn nhắc nhở, khuyến khích tôi dốc lòng cho việc công, cố gằng học làm người
đi thẳng, đứng thẳng, ngồi thẳng và nói thẳng. Mặc dù ai cũng biết ở đời không
phải bao giờ, lúc nào mình cũng có thể muốn thẳng là được thẳng. Vô khối lúc
mình phải vật vã, đấu tranh mà vẫn không thắng được những kẻ dèm pha, xu nịnh.
Nhưng dù như thế, mình cũng phải thẳng cho được bản thân, phải giữ cho lòng dạ
mình ngay thẳng. Không hiếm khi biết rõ thẳng là dại, thẳng là thiệt, thẳng là
thiểu số, thẳng là trái ý cấp trên, thẳng là phải đối đầu, thẳng là mất
phiếu…Nhưng với cái bản ngã, cái trí, cái tâm, cái đức của một con người chính trực
thì phải chọn cái sự minh bạch, ngay ngắn, đúng đắn. Riêng với tôi, từ lâu đấy
là lời tuyên thệ với cuộc sống. Lịch sử, chính trị, văn chương, nghệ
thuật và cuộc đời đều không hiếm những ví dụ phần thắng đôi khi lại không thuộc
về lẽ phải. Trong sự vận động tiến hóa đi lên của lịch sử xã hội, không hiếm
lúc mọi người phải chứng kiến, chấp nhận những nghịch lý, oan sai. Nhưng cho dù
thế nào thì những tấm gương về những con người trung liệt như Ức Trai Nguyễn
Trãi vẫn là vầng Sao Khuê vằng vặc giữa bầu trời
Tôi đã treo
trong phòng làm việc của mình bức thư pháp đề bốn chữ QUANG MINH CHÍNH ĐẠI ở vị
trí trang trọng. Không hiếm lúc tự mình suy tư và tự hỏi vì sao việc xin bốn
chữ ấy lại xảy ra đúng lúc mình đang ngồi trong xe đi trên những con dường
quanh co, uốn lượn, lên đèo, xuống vực ở Tây Nguyên? Chỉ cần một chút sơ sẩy
của lái xe là xảy ra sự cố nguy hiểm chết người. sao việc ấy lại không đến vào
lúc xe đang bon bon trên những chặng đường bằng phẳng? Ngẫm ra, trên trái đất
này chẳng có con đường nào là không có chỗ quanh co, uốn lượn, gập ghềnh, mấp
mô. Cũng như trên đời này không có việc gì và ở đâu mà không gặp gian truân,
trắc trở. Khi bắt tay vào công việc thì “vạn sự khởi đầu nan”; khi lâm sự rồi
thì nảy sinh biết bao là tình huống, nếu làm từ từ thì “Trâu chậm uống nước
đục, người chậm cực cái thân” ; nếu muốn làm nhanh thì không khéo “Dục tốc bất
đạt” …Với mỗi người, chẳng có con dường nào mà lại khó vượt qua hơn là con
đường đời. Băng rừng, vượt núi, lội sông, qua biển,… như người xưa vẫn nói
“khắc đi, khắc đến”. Nhìn vào những việc ấy, dù có gian lao, vất vả đến mấy
cũng khó so sánh với mỗi chúng ta vượt qua con đường đời của chính mình. Đó
cũng chính là điều mà nhân gian đã đúc kết, chiến thắng bản thân là điều khó
nhất.
Với tôi hôm ấy, đổi lại sự
gian truân, vất vả trên con đường đèo dốc là tôi đang được hít thở bầu không
khí hết sức trong lành, được ngắm nhìn đất trời cảnh vật Tây Nguyên thật nên
thơ và tráng lệ. Từ trên cao nguyên, tôi được phóng tầm mắt nhìn khắp bốn phương
trời. Tôi có dược hạnh phúc thưởng ngoạn vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, một
cảm hứng mà năm xưa Bác Hồ đã từng viết:
Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao chập chùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu
vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Sau chuyến đi miền Trung và Tây Nguyên trở về Hà Nội, tôi nhận được bức thư
pháp do người bạn Nhật đề tặng đã được lồng trong khung kính. Những nét chữ của
nhà thư pháp được viết ra thật rắn rỏi, chắc, khỏe chứ không phải viết theo lối
“phượng múa rồng bay”. Chắc là vị học giả - thư pháp Nhật Bản cũng đoán được ý
nguyện người xin chữ, nên ông viết bốn chữ ấy theo hàng dọc chứ không phải hàng
ngang, khi treo bức thư pháp lên là với một tư thế đứng thẳng, như cây cột trụ
trong nhà.
Sau này, vào dịp tết 2013, tôi lại có dịp tìm đến xin cụ Nguyễn Văn Bách – tự
là Long Thành lão nhân, một danh y, đồng thời là một nhà nho uyên thâm, nhà thư
pháp hàng đầu của Việt Nam, viết những chữ trên để tôi in lại bằng công nghệ
mới trên chất liệu đồng. Ngoài ý nghĩa sâu xa của những chữ mang giá trị giáo
huấn đạo làm người, tôi còn muốn lưu giữ lâu dài nét bút tài hoa của cụ Bách.
Tôi nghe nhiều người nói, cụ là người rất coi trọng cái sự đề chữ, tặng chữ.
Mỗi khi viết chữ tặng ai, cụ đều chọn ngày, chọn giờ thắp hương làm lễ rồi mới viết.
Hôm tôi đến nhận chữ, cụ nói: “Tôi cho chữ, viết chữ đã nhiều, nhưng ít có
người xin những chữ như bác”.
Vâng, đúng như cụ nói. Tôi thường thấy mọi người thường xin những chữ cầu chúc
an lành – phú quý – cao sang chứ mấy ai lại đi xin mấy chữ để buộc thêm sợi dây
vất vả vào mình. Ngẫm lại, biết đâu, việc xin chữ của mỗi người cũng là mệnh
số.
Tại nơi làm việc, bức thư pháp đề bốn chữ QUANG MINH CHÍNH ĐẠI được tôi treo
bên cạnh chân dung Bác Hồ - bức ảnh Bác mặc áo bà ba màu gụ với nụ cười thật
đôn hậu, cốt cách ung dung tự tại như một vị tiên ông. Mỗi khi ngồi vào bàn làm
việc, tôi luôn cảm thấy như được gần Bác, được Bác ân cần động viên, chỉ bảo.
Tôi cố gắng học tinh thần xử trí mọi việc của Bác thể hiện trong câu thơ: “Tố
sự thung dung nhật nguyệt trường” (Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung – nhà
thơ Xuân Thủy dịch). Còn tại phòng khách ở nhà, tôi cũng xin cụ Bách viết tặng
cho những chữ là lời dạy bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trung với nước, hiếu
với dân” đặt trang trọng dưới chân dung Bác Hồ. Đó là bức ảnh bác chụp vào
những năm hòa bình mới lập lại. Những năm thàng gian lao, vất vả vẫn còn in đậm
trên gương mặt gầy gò, khắc khổ. Riêng đôi mắt sáng tinh anh và vầng trán cao
của Người thì lúc nào cũng toát lên sự thông tuệ, anh minh và đầy nghị lực.
Trong muôn ngàn điều tôi học được từ những tấm gương đạo đức của người xưa, tôi
luôn cố gắng học và làm theo bốn chữ: “QUANG MINH CHÍNH ĐẠI”. Trong di sản tư
tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh có biết bao điều quý giá
và thiêng liêng mà mỗi người cần phải học. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là
hiện thân của tấm gương vĩ đại nhất về sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Tôi luôn tự nhắc mình phải ra sức học tập và làm theo lời Người dạy. Với mấy
chữ vô cùng ngắn gọn, nhưng trọn một đời chúng ta không biết học bao nhiêu, làm
bao nhiêu cho đủ: “Trung với nước, hiếu với dân”. Có điều gì đó thôi thúc buộc
tác giả phải viết ra chăng? Hình như, “Sau mười năm, lại được đi bộ trong công
viên”, ông tự thấy đã đến lúc “công bố” rằng, “quan nhất thời, vạn đại chính là
dân”, như “bản tổng kết” thời gian tác giả ở nơi quan trường.
Chuyện xin chữ xưa nay vẫn diễn ra và đó là tục lệ đẹp của người Việt. Nhưng,
xin những chữ như tác giả quả thật là rất hiếm. Và bây giờ có lẽ lại càng hiếm.
Đúng như lời cụ Nguyễn Văn Bách, tự là Long Thành lão nhân, một danh y, một nhà
nho uyên thâm, và nhà thư pháp hàng đầu Việt Nam, nói với tác giả Phạm Quang
Nghị: “Tôi cho chữ, viết chữ đã nhiều, nhưng ít có người xin những chữ như
bác”. Vậy tác giả đã xin những chữ gì để treo trong phòng làm việc, và trong
gian khách nhà mình khiến cho cụ Bách cảm thấy ngạc nhiên đến vậy? Đó là những
chữ “Quang-Minh-Chính-Đại” và được tác giả viết hoa trong bài.
Theo tác giả Phạm Quang Nghị, “những chữ ấy đối với tôi từ lâu tôi coi như tôn
chỉ, mục đích, phương châm xử thế trong cuộc sống, nhất là ở chốn công đường”.
Cũng chính những chữ ấy tác giả cố gắng học làm người “đi thẳng, đứng thẳng,
ngồi thẳng và nói thẳng”. Và như tác giả nghiệm thấy, “không hiếm khi biết rõ
thẳng là dại, thẳng là thiệt, thẳng là thiểu số, thẳng là trái ý cấp trên,
thẳng là phải đối đầu, thẳng là mất phiếu… nhưng với cái bản ngã, cái trí, cái
tâm, cái đức của một con người chính trực thì phải chọn cái sự minh bạch, ngay
ngắn, đúng đắn. Riêng với tôi, từ lâu đấy là lời tuyên thệ với cuộc sống”.
Từ “lời tuyên thệ” sắt đá và cũng như là mệnh số ấy, tác giả đã không chỉ cảm
nhận mà “thực sự luôn tâm niệm, định hướng cho mình trong ứng xử, giao tiếp,
nhất là trong xử lý công việc hằng ngày ở chốn quan trường là phải luôn giữ cho
lòng dạ mình trong sáng, ngay thẳng; phải đàng hoàng, minh bạch, khách quan. Cố
gắng không làm bất kỳ điều gì gây oan sai cho người khác cũng như luôn tự khép
mình vào kỷ cương, phép nước, không để người khác lôi cuốn, xúi giục mình làm
những điều sai trái, khuất tất”. Đồng thời tác giả cũng tự khẳng định: “Chiến
thắng bản thân là điều khó nhất”.
Sở dĩ tác giả Phạm Quang Nghị lấy những chữ ấy làm “kim chỉ nam” cho mình, “là
lời giáo huấn hết sức cô đọng và quan trọng đối với những người “làm quan”
trong mọi thời đại”, là bởi: “Ngày xưa hay bây giờ đều không thiếu những quan
chức nịnh trên nạt dưới, vinh thân phì gia, tranh công đổ lỗi… Với loại quan
chức đó những người tốt thường tìm cách lánh xa. Nhưng trong đời, cũng không
hiếm người kém cỏi cả về bản lĩnh cũng như nhân cách, thấy thủ trưởng làm sai,
nói sai mà cứ “bốc thơm” nịnh khen lấy được, thấy người yếu thế bị hàm oan, trù
dập mà vẫn a dua, a tòng phụ họa cấp trên… Đành rằng, có khi mình là cấp dưới
nên không đủ thẩm quyền để xét xử, hoặc không có đủ dũng khí can ngăn, nhưng
nếu là người ngay thẳng hoặc còn có chút liêm chính thì chí ít cũng không thể
cho phép mình đánh tráo lương tâm, đạo đức”…
Gấp lại cuốn sách Xin chữ của tác giả Phạm Quang Nghị, người đã có bốn khóa
liền là Ủy viên Trung ương Đảng, hai khóa Ủy viên Bộ Chính trị, và là người
đứng đầu cấp ủy thành phố Hà Nội trong suốt hai nhiệm kỳ, dường như tôi vẫn
chưa hiểu hết được tâm ý, khi ông viết: “Qua một đêm hè oi bức, rời khỏi căn
phòng nhỏ hẹp của mình, tôi được hòa cùng dòng người đi trong công viên đón làn
gió tươi mát và trong lành ban mai từ mặt hồ Bảy Mẫu tràn qua tưới lên cơ thể”.
Với ai đó có thể đặt ra câu hỏi: Việc mỗi buổi sáng mai đi bộ trong công viên
là quá đỗi bình thường, có gì mà đáng để gọi là hạnh phúc. Nhưng với ông, như
một lời kết: “Hạnh phúc không phải lúc nào cũng là những gì to tát, cao xa”.
Người lập
Duyệt của BGH
Phạm Thị Phương Nguyễn Xuân Trường